Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2016
RÈN TÂM
Địa tang _ Mục Kiền Liên _Tam tạng Huyền Trang.
Địa tạng: Nam mô minh dương cứu khổ đại nguyện địa tạng vương bồ tát
- Minh: u minh (âm,chêt)
- Dương: dương thế(dương,sống)
Cứu khổ cho người âm và kẻ dương. Đầu đội mão + viên minh châu + tích trượng. Kinh mật tông tạo ra.
Mục Kiền Liên: có thật,thần thông đệ nhất(không quấn y đội mão cầm tích trượng) bây giờ người ta tạo,tư tưởng của người á đông. Ngày nay người ta vẽ nhiều như vậy vì ngài cứu mẹ tay cầm gậy ôm bát cơm.
“ Chiều hiêu gió,bóng chiều rơi lá thu,có đàn chim bay vẫn vơ. Mục kiền liên đứng nhìn canh lan. Nhớ mẹ xót xa tâm hồn,cơm đây cơm đây,nhưng than ơi cơm hóa thành..”
+ Tam tạng: không phải tên của một người. Mà biểu tượng ca ngợi người thông ba tạng kinh gọi là tam tạng pháp sư.
Trần Huyền Trang(huyền tráng) trong tây du ký mặc đồ vì đóng phim. Ngày xưa huyền trang không đi như vậy.
- Trương bát giới (ngộ năng) tham giữ 8 giới
- Tôn ngộ không(sân) hại người nên tu định
- Sa ngộ tịnh(si) gánh khiêng,ngộ tịnh tu huệ
Tham sân si đời thường của con người huyền trang. Tham sân si có trong mình. Đạo cao siêu,hướng chỗ cao thượng là tây phương. Phải có thử thách.
- Một năm đi chùa một lần ít người chọc,một tuần nhiều,mỗi ngày nhiều hơn,nói lên đạo lý cao siêu của mình.
Bảy con nhền nhện: là mừng giận buồn vui thương ghét và muốn. Gần người thương vui _ chọc giận (rốn tượng trưng cho lòng của chúng sanh)nhện mỏng. Hờn mát.
42 chương kinh: phật nói không tin tâm mình khi mình chưa chứng đạo.
- Địa tạng được giới thiệu nhờ đức phật thích ca: nước tân la(đại hàn) triều tiên.( chùa đại lâm nói di lặc hóa thân).
- Phỏng theo sự hóa thân của ngài lúc làm hòa thượng,nói di lặc bồ tát gọi phật là gọi trước.
Ba ngài không có liên hệ gì với nhau hết. Quan âm độ sanh(từ bi)_ địa tạng độ tử(đại nguyện). Địa tạng là tâm dầy chắc và chứa đủ(lành thiện tốt và xấu) tích trượng: tâm kiêng cố,tích là sắt trượng là gậy. Minh châu: sáng suốt.
- Vào địa ngục phải có sáng suốt và kiên cố. Khác với chúng sanh không có khả năng cứu ai hết,tâm hướng cõi xấu.
- Cõi nước phương nam là cõi của mình: mây nhàn,mưa quả.
Đưa tâm về thiên đường lành,không đưa về địa ngục. Tu tâm phải biết tâm. Hiểu xe mới sửa xe được,qua quá trình rèn luyện.
“Rửa mặt là rửa tâm
Sạch hết mọi cấu trần
Đề cho nguồn an lạc
Đi vào trong châu thân”
Lau rửa mặt đẹp,lau rửa tâm mình đẹp.
“Thất niệm là bóng đêm
Chánh niệm là ánh sáng
Đưa tỉnh giác trở về
Cho thế gian tỏ rạng”
Chùa nhường nhịn sẻ an lạc,trần cấu bỏ sanh tâm cung kính,kính xá trọng,ân cần hỏi thăm. Kính trọng: mây xinh mưa báu,cảnh đẹp lạ thường,phật tử bổ tâm xấu,phát tâm,chắp tay cung kính cầu vô thượng,hay tay đưa xuống hạ mình xuống,chấp trước dính rồi cột.
Cầu nguyện: nông dân thấy thỏ đâm vô cây chết,nông dân ôm cây đợi.” Hủ chấu đãi thố”
- Tóc tượng trung cho rối rắm,người tu phủi phiền não rối rắm đến xuất gia. Y đắp,y giải thoát nhu hòa nhẫn nhục. Vàng màu nâu đất,chịu đựng dứt sạch bụi dơ.
- Tích trượng có bốn vòng: y là khổ(cầu hôn + kết hôn + lịu hồn + hết hồn)
Chân lý: “tôi thề tôi chẳng yêu ai” quán chiếu: nhìn sâu và soi rọi. “ muốn quá mà không được thì mình vui những gì mình đang có”( kỹ sư_cư sĩ_xuất gia_xa dứt).
Khiêm tốn: “hư tâm xử nhân tiến bộ_kiêu ngạo xử nhân lạc hậu”
Khiêm tốn người tiến bộ,người có tâm kiêu ngạo người lạc hậu. Bùn non(sám) đến đất sét(đen)đất già màu vàng.
Nguyện học khói chứ không học làm tro. “ở kỹ nó rình,hở hinh nó rinh”.
- Tăng ích thiện_ tổn giảm gọi là ác.
- Tinh tấn: tâm thường giải đãi hơn là siêng năng: giải tâm không làm. Đãi thân chìu theo. Siêng mà liên tục là tinh tấn. Tụng kinh gõ mõ,liên tục siêng,đều đặng” cố gắng,cố gắng thêm nữa. Yết đế,yết đế..”
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét