Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2016
NĂM Ý NGHĨA CỦA KINH
Quỳnh Dao, kim dung,tiểu thuyết
Kinh có nghĩa: sutra bắc phạn và suta nam phạn. TQ phát âm: tu đa la,nghĩa: khế kinh(kênh) viết kinh trên lá bối,vải. Kênh là kết lại. Twenty five: ten ti fai...
Khế kinh: 1. Khế lý (hợp chân lý lẽ thật)
2. khế cơ( hợp căn cơ trình độ)
Kinh hợp lẽ thật. Cơ người nghe gọi là kinh. Không dịch để nguyên. Phật cũng để nguyên. Phật có ba nghĩa. Nam mô có sáu nghĩa: cứu cánh,quy mạng,cứu ngã,độ ngã.
Tụng kinh: tụng lý để hợp với căn cơ của mình.
“cố ý trồng hoa hoa chẳng nở
Vô tình tiếc liễu,liễu xanh tươi”
Sang_sộp_xẹp_xấu xí.
Trước ta cũng ở thế gian
Cũng mê cũng mết cũng nhiều chuộng ưa
- Tụng kinh là minh phật chi lý,hiểu nghĩa lý của phật. Phật nói đừng cho là chân lý.
“tất cả kinh như ngón tay chỉ mặt trăng”đừng hiểu lầm mặt trăng là ngón tay. Ôm kinh là chết. Người tụng kinh là kinh sống,kinh pháp hoa la kinh chết. Người sống nói làm là kinh rồi,và ngược lại.
01. Xuất sanh: nghĩa lý là xuất xanh,pháp hoa.phẩm cùng tử: đó là xuất sanh,cùng tử là mình,minh châu là của mình. Xuất sanh là đưa ra nghĩa lý cho mình thấy.
02. Tuyền dũng: tuyền là suối,dũng là mạnh,trạc tuyền: Trạc là rửa. Tuyền là suối. Trạc tuyền là pháp danh của thúy kiều.
- Tụng kinh,thấu nghĩa phiền não được dòng suối rửa sạch.
03. Hiển thị: trình bày nghĩa rõ ràng. Khổ là sự thật. Nguyên nhân là tham sân,si,mạng nghi,ác kiến. Mạn có thứ.. câu chuyện: cái giường nằm bằng thì không chặt..
“Ta là công chúa thủy tề
Có thai nên bụng nặng nề khó đi
ở đây ai mắc bịnh chi
nói nghe ta chữa một phen hết liền”
- Tề thiên là hư cấu ko thật,gọi ông khỉ không gọi con khỉ
Đá: ông tà,ông địa,tà kiến
04. Thằn mặt:( sợi dây thằn) thợ mộc có dây đó. Kinh như sợi dây đo,như bản đồ.
“một câu nhịn chín câu lành,mà tám là ko nhịn đó là chúng sanh”
“dâng hương cúng phật nguyện thề
Lòng luôn tỉnh thức bồ đề trồng gieo”
Hình nhi đĩnh đạc,trấn nhiếp ma quân,phù xuất gia dã. Người đi,người thắp nhang,lễ phật biết có oai nghi.
05. Kết mang: (ấn độ,có vòng hoa đeo cho khách quý). Kinh phật tùy căn cơ nhơn duyên nói, nhưng tất cả sông ngoài đều chảy về biển cả,. Vô lượng pháp môn hợp thì tu nhưng để giải thoát.
Tham _ bố thí
Sân _ từ bi
Phù hợp với bịnh của mình
“Phật pháp lưu hành tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Đến đây nhớ lại chừ quên hết
Chỉ nhớ trên đầu chữ như như”
Như thị,tu như thị,tu tùy hoàn cảnh nhơn duyên. Tuyết đâu ra? Men nếp,.. nhơn duyên. Nhân như thị duyên như thị...
“còn hai con mắt khóc đời một con...”TCS
Như thị: nhìn một bên thôi..
Nhục nhãn là nhìn đâu khổ đó. Thiên nhãn,pháp nhãn,huệ nhãn,phật nhãn,... hiểu kinh sâu giác ngộ sâu,hiểu kinh chậm giác ngộ chậm..
“cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn.”
Thông gia khác ngăn gia. Sui gia(2 bên hướng dẫn cho con đồng hướng.. ngược lại là ngăn gia..
“mỗi bước chân đi vào tịnh độ
Mỗi cái nhìn thấy được pháp thân
Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần
Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ
Tập khí năm xưa rồi chuyển hóa”
“vườn tâm hoa tuệ nở trăm hoa
Niềm an vui đem khắp mọi nhà
Hạt giống tốt gieo về muôn lối
Cùng tăng thân xin nguyện trở lại
Nơi cõi trần làm việc độ chúng sanh
Chào xá là kinh người khác,là phật sẻ thành trong tương lai. A di đà dể nhớ ,thâm nhập vào trong lòng người khác. A di đà có ba cái vô lượng. Vô lượng quang,vô lượng thọ,vô lượng công đức. Tâm thanh tịnh sáng suốt,ai cũng có tâm trong sáng,nên chắp tay a di đà phật.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét