Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

ĐỨC PHẬT VÀO ĐỜI


ĐỨC PHẬT VÀO ĐỜI

*   DẪN NHẬP

Hàng năm, cứ mỗi độ trăng tròn tháng 4 âm lịch, hàng triệu người con phật từ khắp nơi trên thế giới hân hoan chào đón ngày đại lễ phật đản,kỷ niệm một sự kiên hy hữu của loài người. Đức phật thị hiện giữa cuộc đời. Người con phật ở khắp năm châu đều vượt qua những ngăn cách về địa lý,ngôn ngữ,cùng hòa nhịp con tim thành kính cung nghinh Bồ tát Hộ Minh từ cõi trời Đâu Suất giáng trần.

Ngày mà hơn 2556 năm về trước, “một chúng sanh duy nhất, một con người phi thường, xuất hiện trong thế gian nầy,vì lợi ích cho số đông,vì hạnh phúc của số đông,vì lòng bi mãn,vì sự tốt đẹp,vì lợi ích và hạnh phúc của chư thiên và loài người.”

-Cờ Phật Giáo có 5 màu, và khi xưa người ta làm cờ với quan điểm là 5 màu thể hiện cho 5 châu nhưng về sau địa cầu có tất cả 6 đại châu mà Phật Giáo đều đến và làm cho tất cả xứ sở an ổn, hòa bình.  Trong lịch sử truyền bá của Phật Giáo, đạo Phật đi tất cả các nơi trên thế giới để chia xẻ niềm đau thương của chúng sanh mà chưa bao giờ đổ máu bởi những cuộc chiến tranh trong vai trò truyền giáo.

-Trong pháp hội chúng ta nói riêng và trong xã hội nói chung,có rất nhiều người sinh trung vào ngày rằm tháng tư nhưng không được tôn vinh tương nhớ là vì chúng sinh không làm được như ngài: để lại kho tàng giáo lý khổng lồ có công năng chia xẻ nổi khổ và niềm đau cho nhân loại cho số đông cho chư thiên và loài người còn chúng ta không làm được như thế cho nên chúng ta không được tôn vinh và nhắc nhở như ngài…

 -Trong Kinh Pháp Cú, Phật nói rằng:Có 4 cái hạnh phúc chân thật, đó là:

 

Hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh  Có ba từ chỉ sự ra đời của đức phật

Đản sinh: Đản có nghĩa là vui vẻ, hân hoan, lợi ích cho nên ngày đức Phật sinh ra đời là ngày làm cho người hân hoan, vui vẻ.  Đó là nguyên nhân mà mỗi mùa Phật Đản những người con Phật chào mừng ngày đức Từ Phụ ra đời với tinh thần thương yêu, hòa ái.  

 

 Bởi vì nơi nào mà có chư Phật giáng sinh thì nơi đó sẽ mang lại nguồn lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho chư thiên và loài người.Chữ Giáng sinh mang cái ý nghĩa cao thượng tức là một bậc tu hành nhiều kiếp thị hiện xuống trần gian làm một chúng sanh như chúng ta để chia xẻ nỗi cơ cực, thống khổ triền miên của kiếp con người và trở thành bậc giác ngộ.  Còn chúng ta thì gọi là được sinh ra trong đời này do cái nghiệp lực bởi ái dục, bởi thương yêu cho nên chúng ta chịu nhiều khổ đau cả ý niệm lẫn tâm thức.Trong cái hình ảnh sơ sinh của Phật thì chúng ta thấy rằng Phật cũng như bao nhiêu đứa trẻ khác cũng sinh ra, lớn lên và già chết.  Nhưng cái quan trọng của Phật mang vào cuộc đời là giáo lý và những tư duy làm cho cuộc đời trở nên thánh thiện.  Cho nên khi chúng ta mừng ngày đản sinh của đức Phật là chúng ta tưởng nhớ đến công đức của một người đã đi vào cuộc đời này và mặc dù người ấy đã đi qua cuộc đời này 2556 năm, nhưng những gì người đó để lại cho đời quá rực rỡ, quá tốt đẹp để con người ngưỡng vọng, tưởng niệm, tôn kính và trở thành một bậc vĩ nhân của nhân loại. 

 

Chữ Thị hiện hay Thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt cho con mắt trần chúng ta nhìn thấy được.

Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này để mở ra một con đường giáo lý, con đường giác ngộ gọi là đạo Phật.  Chánh pháp là những giáo lý chân chánh làm cho con người bỏ khổ, trừ mê và cuối cùng thành tựu giác ngộ.  Nhưng sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chánh pháp sẽ ra sao?  Vì vậy Phật nói:

Hạnh phúc thay Tăng già hòa hiệp Tức là những đòan thể, những vị tu hành đã thệ nguyện đi theo con đường của đức Phật và tập sống giống như đức Phật để hướng dẫn giáo lý của Phật cho tất cả chúng sanh, gọi là Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di, trở thành người Phật tử chân chánh.  Điều quan trọng sau cùng Phật gởi đến chúng ta là:

Hạnh phúc thay tứ chúng đồng tu tức là mọi người cùng tu để giải thoát những khổ đau, giải trừ những tham vọng, những si mê trong cuộc đời thống khổ này.  Tứ chúng gồm có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di, cận sự nam và cận sự nữ.  Tứ chúng xây dựng đạo Phật để đi vào cuộc đời cho nên Phật nói đó là niềm hạnh phúc. Niềm hân hoan chúng ta đón nhận trong ngày Phật Đản Nhớ tưởng một cách chân chánh đến đức Phật không có gì hơn là sống thánh thiện và noi theo nhân cách của đức Phật để trở thành một người con Phật xứng đáng.

*   CHÁNH ĐỀ:

_Ngày nay, dù hơn 25 thế kỷ đã trôi qua với bao biến đổi thăng trầm của thời cuộc, dù cả nhân loại đang tận hưởng nền văn minh vật chất của sự tiến bộ khoa học kĩ thuật, dù thế giới có biết đến Ngài là một đức Phật lịch sử, một nhân vật có thật; nhưng hình tượng một bậc siêu nhân mang tính huyền thoại nơi Ngài vẫn còn in đậm trong lòng những người con Phật.

 

-Truyền thống kinh Bắc tạng cho rằng Thái tử sanh ra từ bên hông hữu của Hoàng hậu.Và Ngài cũng bước bảy bước, tay chỉ trời, tay chỉ đất mà nói rằng: “ trên trời và dưới đất chỉ có Ta là hơn cả.” Bấy giờ, một hào quang kỳ diệu … chiếu khắp mười nghìn thế giới, các thế giới đều chấn động, rung động.

Và với hình ảnh một đức Phật lung linh huyền thoại như kinh văn miêu tả đó đã ít nhiều để lại trong lòng hàng Phật tử một niềm tin sâu xa. Điều nầy cũng không khó hiểu. Bởi lẽ, bất cứ một Tôn giáo nào, vị giáo chủ cũng được “thần thánh hoá”, được tôn thờ như một thần linh ban ơn giáng phước cho trần thế, cho người cầu khẩn. Đức Phật của chúng ta cũng không ngoài thông lệ ấy.

 

Tuy nhiên, yếu tố huyền sử của đức Phật đản sinh đã xuất phát từ trong hiện thực mà cuộc đời Ngài là một minh chứng. Từ khi sinh ra, lớn lên, xuất gia, tu học và thành đạo cho tới khi Niết Bàn, mỗi bước chân của người là sự hóa hiện bi nguyện độ sanh, mang tình thương, an vui, hạnh phúc đến cho muôn loài.

 

Là Phật tử, chúng ta phải hiểu chính xác về cuộc đời Ngài để không mang tội huỷ báng. Như trong một bài kinh đức Phật có nói rằng những ai tin mà không hiểu Ngài tức là huỷ báng Ngài.

 

Thật vậy, nói về đức Phật, nếu ta chỉ dựa trên quan điểm lịch sử hay tin suông theo huyền thoại thì chưa đủ. Ta phải kết hợp giữa đức Phật lịch sử và đức Phật huyền thoại thì mới có thể khắc hoạ được một cách hoàn mỹ chân dung con người siêu việt ấy.

Lịch sử đã ghi nhận sự hiện hữu của đức Phật trên thế gian nầy cách nay hơn 25 thế kỷ: Đó là một nhân vật có thật trong lịch sử nhân loại.

_Năm 1986 nhà khảo cổ người Anh Cuningham đã khai quật được một trụ đá trong số 4 trụ đá do vua A Dục chôn để ghi lại nơi chốn đã gắng liền với lịch sử của đức Phật, thường gọi là Tứ Động Tâm. Trên trụ đá có khắc năm dòng chữ:

 

- Năm Thiện Ái Thiện Kiến thứ 25 vua A Dục đích thân đến đây chiêm bái.

- Đức Phật Đà, dòng họ Thích Ca đi xuất gia, Đản sinh nơi đây.

- Vua sắc dựng thanh trụ để kỉ niệm nơi Ngài đản sinh.

- Thôn Lâm-tỳ-ni, nơi Phật đản sinh được miễn thuế.

- Đó là hồng ân Phật đối với nơi Ngài đản sinh.

 

Y cứ vào trụ đá được khai quật, Tây phương xoá bỏ quan niệm cho rằng đức Phật là nhân vật huyền thoại và chấp nhận là một nhân vật lịch sử, vì theo Tây phương, trụ đá đó chính là bản khai sinh của đức Phật.

Chúng ta cũng biết, ở các nước Đông phương, sự ra đời của các bậc Thánh nhân bao giờ cũng được thần thánh hóa bằng những huyền thoại.

 

…Như bà Nhan Thị (mẹ Khổng Tử), sau khi đến núi Ni sơn cầu tự về thì đêm hôm đó nằm mộng thấy Hắc Đế bảo rằng bà sẽ sanh được Thánh tử và phải vào trong hang núi Không Tang để sanh. Khi tỉnh dậy thì bà biết mình có thai.

Lần khác, đang lúc bà mơ mơ màng màng như người chiêm bao thì chợt thấy có một ông già đến đứng ở trước sân, tự xưng là Ngũ Tinh, dắt theo 1 con thú giống như con trâu con mà lại có 1 sừng, mình có vằn. Con thú thấy bà liền nằm phục xuống và nhả ra 1 cái ngọc xích. Hôm sau hỏi lại chồng thì mới biết đó là con Kỳ Lân. Kỳ Lân xuất hiện, theo sự tin tưởng của người Trung Hoa thời xưa là điềm báo trước có bậc Thánh nhân ra đời.

Khi sinh Khổng Tử thì có hai con rồng xanh từ trên trời bay xuống nằm phục ở hai bên sườn núi và có 2 vị Thần Nữ đem nước hương lộ đến gội đầu cho bà Nhan Thị. Gội xong thì biến đi. Khi bà lâm sản, bổng thấy trong hang đá có 1 suối nước nóng chảy ra để bà tắm, tắm xong thì suối cạn ngay.

-Ở Việt Nam thì có bà Ngô Thị Ngọc Dao khi mang thai vua Lê Thánh Tông cũng đã nằm mơ thấy trời sai tiên đồng giáng trần..v.v.

Thế nên, sự ra đời của một bậc siêu phàm như Đức Phật dẫu có thần thánh hóa cũng là điều tất nhiên và dễ hiểu.

 

-Truyền thuyết kể rằng Hoàng hậu Ma Da chiêm bao thấy voi trắng sáu ngà từ trên không trung xuống và ẩn vào bên hông bên phải ; sau đó bà thọ thai. Voi trắng 6 ngà là một biểu tượng của Bồ tát với hạnh nguyện cứu đời. Voi tượng trưng cho sức mạnh, một sự hùng dũng luôn hướng về phía trước. Sáu ngà biểu đạt hình tượng Bồ tát thành tựu Lục độ Ba la mật (Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ).

Và Thái tử cũng được sinh ra từ bên hông bên phải. Điều nầy cũng không khó hiểu đối với người Ấn vốn xem bên phải là thiêng liêng, mầu nhiệm. Bằng chứng là họ luôn đặt hình tượng tôn kính về phía bên phải. Như vậy, bên phải biểu tượng cho sự tốt đẹp thuận chiều; tức là thuận chiều Niết Bàn và nghịch chiều sinh tử. Thái tử (hiện thân của Bồ-tát) là một bậc siêu phàm, thân tâm thuần khiết, sạch trong, “cư trần bất nhiễm trần”, không bị cuốn hút bởi dòng xoáy của luân hồi sinh tử. Trái lại, Ngài đã vượt thoát mọi khổ đau ràng buộc của dục trần và đem chân lý giác ngộ giải thoát độ người cùng vượt thoát.

-Thái Tử sanh ra từ hông hữu cũng có nghĩa là Thái Tử bước ra khỏi phạm trù đối đãi nhị nguyên “phải – trái, tốt – xấu, thương – ghét…” mà từ vô thỉ kiếp chúng sanh đã chấp chặt.

 

Còn việc Thái Tử sanh bằng đường hông thì cũng có những suy luận như vầy: Có thể là do Hoàng hậu cận ngày sanh nở mà đi lại nhiều (xa giá từ hoàng cung tới vườn Lâm Tỳ Ni bằng xe bò hay xe ngựa cọc cạch lắc lư trên những con đường đất bụi nóng bức) làm ảnh hưởng đến thai nhi ? Rồi khi Bà với tay cao (định hái hoa Vô Ưu) làm động bào thai (?) Và cũng có thể vì Hoàng hậu lớn tuổi mới có mang (trên 40 tuổi mới thọ thai) nên sanh nở khó, phải nhờ đến sự phẩu thuật ?

Thái tử vừa sinh ra liền bước đi bảy bước trên bảy hoa sen “bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc”, mà không cần người nâng dắt.

- Tại sao chỉ là bảy bước mà không phải con số nào khác hơn như năm bước, sáu bước hay tám bước chẳng hạn? Về điều nầy thì cũng có nhiều bản kinh viết, tuy có khác đôi chút nhưng con số 7 vẫn là thuyết chung. Có rất nhiều người giải thích khác nhau nhưng vẫn cùng chung ý nghĩa: Con số 7 là con số tốt lành giống như người Trung Hoa xem con số 9 là con số kiết tường vậy.

 

Số 7 là “con số huyền học Đông phương” mà người Ấn rất xem trọng.

- Có người giải thích Thái tử đi bảy bước là vì Ngài là vị Phật thứ bảy, tiếp nối sáu vị Phật đi trước là Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp và tới ngài là Phật Thích Ca.

-Hoặc theo tư tưởng Hoa Nghiêm, toàn thể vũ trụ không ngoài con số 7: Trên, dưới, trong, ngoài, phải, trái và chính giữa. Từ vật nhỏ như vi trần đến vật lớn như núi Tu Di, tất cả đều không ngoài con số 7.

-Hoặc bảy bước tượng trưng cho ba yếu tố (quá khứ - hiện tại- vị lai) và bốn chiều không gian (Đông- Tây- Nam- Bắc).

Hoặc bảy bước chỉ cho:

-Thất đại: Địa đại (đất), thuỷ đại (nước), phong đại (gió), hoả đại (lửa), hư không đại, kiến đại và thức đại.

-Thất Bồ Đề Phần (Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả).

 

Ø Không riêng gì Ấn Độ, con s 7 t bao đi đã là con s thiêng liêng gn lin vi tư tưởng văn hóa của loài người như:

- Mỗi tuần gồm có 7 ngày.

- Kinh Thánh Thiên Chúa giáo cho rằng Thượng đế sinh ra vũ trụ trong 7 ngày.

- Đời Chu–Tần ở Trung Quốc có 7 vị hiền triết là Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Mặc Tử và Hàn Phi Tử.

- Trong nhạc lý có 7 âm bậc là: Do, Re, Mi, Fa, Sol, La, Si.

- Thất ngôn của thơ Đường.

- Thất diện (7 tinh tú của thiên văn học) là: Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh, Hải vương tinh

- Thất tịch (mùng 7 tháng 7).

 

-Về hình ảnh bảy hoa sen dưới gót chân Ngài thì có người nói là biểu trưng cho sự thành Phật của bảy hàng đệ tử Phật gồm: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức Xoa ma na, Ưu bà tắc và Ưu bà di.

Tất cả các hình tượng Phật, Bồ Tát đều đứng trên hoa sen vì hoa sen có tính chất đặc thù mà các loài hoa khác không có: Mọc ở bùn mà không nhiễm bùn, hoa trái kết cùng một lượt, ong bướm không đến hút mật, các thiếu nữ không lấy cài tóc, hoa nở trước bình minh.

-Hoa sen không những là một loài hoa tinh khiết (gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn), mà còn có một số phẩm chất như hương (thơm), tinh (sạch), nhu nhuyến (mềm mại) và đáng yêu. Đó cũng chính là hình ảnh đẹp của Đức Phật, sinh ra trong đời, lớn lên trong đời mà không nhiễm mùi đời, sống trong trần mà không nhiễm trước. Là biểu tượng cho tinh thần nhập thế của Phật giáo mà phương ngữ thường dùng là “Phật pháp bất ly thế gian giác”, “cư trần bất nhiễm trần” như hoa sen mọc trong bùn mà vẫn nở hoa thơm.

-Thái tử đứng vững trên đoá sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói rằng: “Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là tôn quý.”

 

“Thiên thượng thiên hạ

Duy ngã độc tôn

Vô lượng sanh tử

Ư kim tận hỉ.”

 

-Thoáng nghe qua chúng ta dễ dàng cho là đức Phật tự cao tự đại! Bởi vì chúng ta cho rằng cái Ta này là cái Ta của Thái tử Tất-Đạt-Đa, một cái “Ta-Ngã” sinh diệt như trăm ngàn cái Ta của chúng sanh khác… Nếu hiểu như vậy thì giải thích thế nào đây với câu nói khiêm hạ bất hủ của đức Phật: “Suốt 45 năm (hay 49 năm) thuyết pháp ta không nói một lời” ?

 

-Hay nếu nói cái Ta đó là cái Ta của thân ngũ uẩn “duyên sanh giả hiệp”, là cái Ta của 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp thì trái với qui luật vô thường và giáo lý vô ngã của đạo Phật, “Phàm sở hữa tướng giai thị hư vọng”.(kinh Kim Cang). Sự thật cuộc đời hễ hữu hình thì hữu hoại, không một chúng sanh nào thoát khỏi sự khổ não của sanh già bệnh chết. Cho nên, cái Ta ở đây chắc chắn không phải là cái Ta của sanh diệt mà là cái “Ta chân thật”. Đó chính là Chơn ngã, Chơn tâm, Phật tánh, là bản tâm thanh tịnh, là Tâm Viên giác, là Phật tri kiến, Nó không có hình tướng nên không bị huỷ diệt. Nó trùm khắp cả không gian và thời gian.

 

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Như Lai Tánh, đức Phật dạy: “Ngã tức là nghĩa Như Lai Tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ đời nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được”. Cái ngã này tất cả chúng sanh đều có, không ai hơn không ai kém. Nhưng vì chúng ta đã bỏ quên, chưa nhận ra được nó nên cứ mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Ví như gã cùng tử có hạt châu trong chéo áo mà không hay biết nên cứ mãi lang thang nghèo khổ.

Và đức Phật đã chỉ cho chúng ta nhận ra cái “Ta” cao quý đó qua quá trình tự thân tu tập, hành trì, chứng ngộ và thành tựu trí tuệ vô thượng, giải thoát Niết Bàn của Ngài. Cùng với lời tuyên bố “ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” vì “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, có một không hai trong lịch sử nhân loại.

Như vậy, câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” không phải chỉ cho cá nhân đức Phật, không phải chỉ cho cái Ngã sinh diệt mà chính là cái Chơn Ngã chẳng hề sanh, chẳng hề diệt mà ai ai cũng có. Cái Ngã đó mới thật là cái “Ta tôn quí”.

-Cái ta mà đức phật muốn nói đến là cái tự ngã của ta: vợ con của ta,quốc thành thê tử của ta.vvv.

Ai lo con vào đại học vvv

Câu chuyện mẹ chồng nàng dâu ở Hàn Quốc…. có cô gái về làm dâu….mới cưới thì rất là tốt người ta thường nói” thương chồng mới nể mụ gia. Chứ tôi với mẹ có bà con chi”vì thương chồng nên tôi nể chư mẹ chồng con dâu không dính dáng không máu huyết gì hết. mẹ chồng hành hạ con dâu. Sáng nào cũng có kịch .. lâu thành kịch tính.. ngày xưa ở việt nam làm dâu rất khổ. Cô dâu không chịu nổi đi tìm đến tịm thuốc bắc mua thuốc độc về cho mẹ uống cho chết. thầy thuốc hỏi: thuốc rất độc nên trước khi đưa thầy thuốc hỏi tại sao? Thì cô nói tôi sẻ chết vì mẹ chồng nhưng rất thương chồng mà chồng lại thương mẹ chồng. thuốc bỏ uống sáu tháng uống từ từ. cô phải tỏ thái độ tốt hiếu,ăn nói nhẫn nhục không cải lại ít nhất sáu tháng thì sau sáu tháng mẹ chết mọi người không nghĩ mình giết. về cô đổi thái độ sau ba tháng bà mẹ thành người dể thượng,mẹ chồng thương hơn con trai. Biết lo đấm bóp xoa dầu. cô con dâu này thấy mẹ dể thương ko muốn giết nữa. nên cô dâu đi cầu cứu thầy cứu lại mẹ mình thầy kêu không được nên cô đòi chết. thầy giải thích. Thuốc độc là độc tố trong tâm cô. Nay đã được giải. thuốc mẹ uống là thuốc bổ cô đừng lo. Cúi cùng mẹ con hp nhưng hanh phúc nhất là người chồng.    mẹ cứ áp đặt theo mình là đúng

Bản ngả của mình làm cho mình khổ. Cho mình dúng người khác sai.hai chữ ngã của làm cho ta khổ.

Con cái chạm tự ngã nện tự vẫn

Vợ chồng xa cách li dị cũng vì chạm đến tự ngã..

Câu chuyện vua ở Ấn Độ… Pasennadi và hoàng hậu Malika cai trị vương quốc Kosala..  

_Đức Phật của lịch sử là một người có thật đã sinh ra tại Ấn Độ cách nay 2626 năm tên là Sĩ Đạt Tha con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da của giòng họ Sakya tức là Thích Ca.  Khi lớn lên, ngài có vợ tên là Da Du Đà La và con trai là La Hầu La.  Đây là một lịch sử rất bình thường nhưng cái phi thường trong con người đó là sau khi có gia đình, nhận thức chân chánh và sâu sắc được tất cả cái khổ của cuộc đời qua “sinh, lão, bệnh, tử” khổ, “ái, biệt, ly” khổ, “thù, ghét, gặp gỡ” khổ, “thân, thể bại hoại” khổ, “cầu, muốn mà không được” khổ.

-Nhân duyên là ngài dạo bốn của thành. để rồi cuối cùng ngài đã từ bỏ cuộc sống của hương vị, của giàu sang, những luyến ái, thương yêu, khát vọng của chúng sanh để đi vào rừng già mà chịu 6 năm khổ hạnh, 5 năm tìm đạo và đã tìm ra con đường chân lý. 

Trong suốt 5nam tìm đạo 6 năm khổ hạnh người đã vay nước mắt của cha mẹ

-Mỗi chúng ta cũng đã từng vay nước mắt của người thân.

 Chân lý đây không phải là những gì kỳ tuyệt mà chỉ là sự thật của cuộc đời có nghĩa là tất cả những khổ đau, những chấp thủ trong thế giới là ngã và ngã sở hữu.  Vì vậy chúng ta lăn lộn trong nhiều kiếp luân hồi và chịu vô lượng khổ đau.  Sau 49 ngày ngồi duới cội cây Tất Bát La (sau gọi là cội Bồ Đề hoặc Bodhi), ngài đạt giác ngộ và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (trước khi giác ngộ chỉ là giòng họ Thích Ca hoặc Gotama). Như vậy, cái thành Phật của ngài là để chúng ta thấy rằng đức Phật cũng là một con người giống như chúng ta.  Do đó khi thành Phật, ngài nói rằng:

- “Bây giờ ta đã thấy rõ người làm nhà, thấy rõ cái con người mà ta đã từng sanh tử luân hồi qua bao nhiêu kiếp cho nên cái người thợ làm nhà [những ham muốn, chấp thủ] không còn làm nhà được nữa vì tất cả những kèo cột đều gẫy hết cho nên hôm nay ta đã chiến thắng được ngươi.  Chỉ có chiến thắng được mình thì đó mới là chiến công oanh liệt nhất.”  Chúng ta nghe thì thấy là đơn giản nhưng cái công trình để tìm ra con đường của giác ngộ, cái sự hy sinh, lòng từ bi vô lượng của đức Phật khi vào đời rất là lớn và không thể diễn tả được vì không có ngôn ngữ nào để nói lên được sự cảm niệm cái công ơn sâu dầy của một người đã khai sinh ra một giáo lý mà có thể làm giác ngộ được toàn thể nhân loại.

    Sau khi ngài thành Phật, ngài đã tuyên bố rằng: “Như Lai là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” để nói là chúng ta đi trong luân hồi mà bất cứ lúc nào chúng ta giác ngộ và chấm dứt luân hồi thì chúng ta cũng sẽ thành Phật như ngài, giải thoát khổ đau như ngài vậy.  Do đó chúng ta phải sách tấn tu hành và đừng nên coi thường cái khả năng giác ngộ của chúng ta ngay trong cái thế giới ngũ trược này (ngũ [5] trược [nhơ bẩn] là ác trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược).  Phật nói rằng: “Bởi vì chúng ta tự ti, mặc cảm, cứ nghĩ rằng chúng ta là chúng sanh nhưng nếu chúng ta thử buông xả hết những tham chấp của cá nhân, thương yêu hết mọi người, tha thứ và gần gủi mọi người thì chúng ta sẽ từ từ trở thành cao thượng.” 

Có người hỏi là làm sao tìm ra được người đắc đạo trong ngày nay?  Thật ra, người đắc đạo không phải là người thị hiện thần thông.  Đức Phật đã nói là ngài biết thần thông nhưng không muốn biểu diễn để cho người sợ hải hoặc tin theo.  Phật không huyền bí như chúng ta tưởng mà là một người rất bình thường. 

Cái quan trọng của người học Phật là chất bình an, không có sự chấp thủ cá nhân và không có sự tham muốn cá nhân.  Cho nên ngày nào chúng ta còn tham muốn, còn phân biệt, còn đối xử nhiều thì ngày đó chúng ta còn cách xa Phật mặc dù trong chúng ta có đầy đủ Phật chất.  Phật nói rằng: “Như Lai ra đời với một đại sự nhân duyên là khai thị chúng sanh ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là ngài ra đời để khai mở cho mọi người thấy được rằng ai cũng có những của báu và hãy xử dụng những của báu đó đúng với khả năng của nó.

 Khi người ta hỏi về nguyên tắc của đạo Phật là gì thì các vị Tổ hoặc Thánh nhân trả lời rằng: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo” tức là tất cả giáo lý đạo Phật chỉ gồm trong ba điều là đừng làm ác, cố gắng làm lành, tự thanh tịnh hoặc thanh lọc chính mình và đó là lời chư Phật dạy.

Chư Phật gồm có Phật của quá khứ, Phật của hiện tại và Phật của tương lai.  Khi không làm các điều ác thì chúng ta đã thiện rồi nhưng đây chỉ là phần thiện của tiêu cực, trong khi câu thứ hai “chúng thiện phụng hành” là phần thiện tích cực tức là chẳng những không làm điều ác mà những việc thiện dù nhỏ cũng không bỏ.  Thí dụ như nhặt gai hoặc mảnh sành để người khác không đạp lên gọi là chúng thiện phụng hành trong khi không quăng gai ra đường là không làm ác nhưng điều thiện thì chưa làm. 

Khi hiểu rõ thì chúng ta thấy rằng đạo Phật rất là tích cực.  Cũng như đức Phật nói rằng cuộc đời là khổ đau không có nghĩa là bi quan, yếm thế mà cốt là cho thấy rằng chúng ta không nên tham đắm, say mê cuộc đời này để rồi tạo nên những khổ đau cho người khác mà phải luôn tỉnh giác để thấy cuộc đời này là vô thường, khổ đau, vô ngã và do đó phải “chúng thiện phụng hành” để làm tốt đẹp cho người xung quanh.  Sau khi bỏ ác, làm thiện, chúng ta phải thanh lọc ý của mình có nghĩa là phải sám hối để lục căn được thanh tịnh.

·Trước khi nhập Niết Bàn, Phật nói rằng: “Tất cả các đệ tử của ta đời nay và đời sau chỉ nhớ một điều là hãy luôn luôn tinh tấn để giác ngộ giải thoát, hãy làm như một con tuấn mã chạy ra khỏi những ý hèn của mình...Nếu các Phật tử cung kính Phật thì nên nhớ là cung kính không bằng gì là phụng mạng.  Này các ngươi, đừng nghe theo dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi sự vật ở đời không có gì là quí giá, thân thể rồi sẽ rã tan. Chỉ có chân lý của ta nói là bất di, bất dịch. Cái đó làm cho các ngươi tự giải thoát khỏi khổ đau. Cho nên, này các ngươi, hãy tinh tấn lên, hãy tự nương tựa chính mình, đừng nương tựa ở một ai khác.” 

*   KẾT LUẬN

-Trong ngày Phật Đản, chúng ta chỉ có sắm hương, hoa, quả thôi thì chưa làm tròn bổn phận.  Chúng ta còn phải tưởng niệm đến công ơn của Phật, còn phải tự xét mình đã xứng đáng làm người Phật tử chưa, đã tiến bộ hơn trước chưa và chỉ khi nào con người chúng ta ngày càng hoàn thiện hơn thì mới là đã và đang cúng dường Phật một cách cao thượng. 

Chúng ta về chùa để cảm nhận cái tình cảm thân thiết của con người, cái tình thương bình đẳng của đức Phật đến với tất cả muôn loài.

Chùa là bóng mát quê hương

Là nơi chan chứa tình thương đậm đà

hay là:

Mỗi người, mỗi nước, mỗi non

Bước vào cửa đạo như con một nhà

-Không phải chỉ riêng ngày Phật Đản mà là bất cứ ngày nào trong đời, chúng ta nên mang Phật chất vào đời bằng cách sống vị tha, nhân ngã và phải biết rằng thế giới này chỉ là tạm bợ mà thôi.  Do đó chúng ta phải trồng hạt giống tốt để dù cho có đi đến thế giới nào đi nữa hoặc trở lại cõi này, cuộc sống của chúng ta cũng vẫn luôn cao thượng và tốt đẹp hơn.  Nói một cách khác, chúng ta phải làm sao để lúc nào cũng thấy Phật,  thấy pháp, nghe Kinh thì như vậy là chúng ta đem đạo Phật vào đời.

 Đức Phật nhập Niết Bàn 2546 năm và Phật đản sinh 2626 năm nhưng cái hương vị ngài trao truyền cho tất cả đều bình đẳng như nhau.  Nếu như chúng ta nhớ tưởng, tôn kính đến đức Phật thì chúng ta cảm nhận được cái hạnh phúc được làm đệ tử của ngài.  Chúng ta hãy phát nguyện tự tìm về chính mình, tự giác ngộ, tự tìm Phật chất của chính mình, và trong những thời gian nào của riêng mình thì chúng ta hãy tự tịnh kỳ ý.  Như vậy là chúng ta đã vâng lời dạy của chư Phật và đã cúng dường chư Phật.  Ý nghĩa quan trọng nhất trong ngày Phật Đản là “ngày Đản Sanh (ngày rằm tháng Tư) của đức Phật Thích Ca Mâu Ni không có ý nghĩa bất diệt, bất tử của nó, nhưng chính những gì Phật làm cho thế gian này sau khi ngài sanh ra làm cho ngày Đản Sanh trở nên bất diệt.”

 

 

 

 

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

NGHIỆP DUYÊN



 Quan điểm giáo lý Phật học là làm thế nào để nhận thức sự an ổn về phần tâm linh trong một thế giới đầy quyến rũ và tham muốn, truy cầu vật chất.  Ngoài những thứ cần trong cuộc sống, chúng ta còn cần những chất liệu để làm cho tinh thần chúng ta được đầy đủ về mặt kiến thức, đạo đức và hoan hỷ, và khi trau dồi về tâm linh như vậy là chúng ta đang sống trong thiền đường.  Phật giáo là một nghệ thuật sống thiết thực và lợi ích cho chúng sanh ngay trong hiện tại.  Nếu như cuộc sống không còn khổ đau thì cái tư duy của đạo Phật, cái an lành của giác ngộ, sự bình tỉnh và an ổn của những pháp tu thiền định sẽ không có giá trị và không thể tồn tại được.  Do đó đạo Phật không thể nào tách rời khỏi cuộc sống của loài người.  Những vị A La Hán thời xưa rất lấy làm khổ đau nếu trước khi họ chết mà chưa chứng được tứ thiền để nhập Niết Bàn với quả vị A La Hán bởi vì sở nguyện của họ là đạt được thắng trí vô sanh tức là không còn sanh tử nữa mà khi lên cảnh giới trời thì rất là khó tu vì quá sung sướng và hưởng hết phước thì bị đọa lạc trở lại cảnh khổ đau.  Khi đọc bài Kinh Sám Hối, chúng ta thường thấy đoạn “Nay con phát tâm chẳng vì cầu phước ở cõi nhơn, thiên, Thanh Văn, Duyên Giác nãi chí đại thừa, duy chỉ có quy y tối thượng thừa và phát Bồ Đề tâm để thành tựu chánh đẳng chánh giác”, và đây là mục tiêu chính của những vị A La Hán.

 Trước khi muốn tu tập chúng ta phải biết cái gì tạo nên những khổ đau và những gì sẽ chấm dứt khổ đau.  Chúng ta nên hiểu rõ về nghiệp duyên có nghĩa là thế nào là nghiệp và thế nào là duyên. 

 Nghiệp

·          Cái mà con người chúng ta đang cưu mang để có thân người gọi là nghiệp, và nói theo đạo Phật là những gì mà đã tích tựu bởi ba yếu tố căn bản trong quá khứ, hiện tại và vị lai.  Trong tương lai nghiệp là năng lực dẫn chúng ta đi vào một thế giới nào đó tùy theo những việc chúng ta làm. 

·          Nghiệp hoặc karma là hành động tạo tác do thân, khẩu và ý.  Ba yếu tố này kết hợp lại thành năng lực ác hoặc thiện tùy theo nghiệp ác hoặc nghiệp thiện đã tạo nên.

·          Khi tướng hiện lên là do cái nghiệp tích tựu tạo thành, thí dụ như đức Phật đi đến đâu mỗi người đều quí mến, kính trọng là vì ngài đã từng gieo nhân quả tốt, công ơn rất lớn với nhiều người trong nhiều đời, nhiều kiếp cho nên mỗi người đều nghe theo lời Phật dạy.

·          Nhân tố của nghiệp là liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, và hiện tại định hướng cho tương lai.  Cho nên chúng ta có thể chuyển nghiệp xấu thành tốt, nghiệp bất thiện thành thiện.  Chúng ta có thể công phu từng phần một để chuyển dần những thói xấu chẳng hạn như là chuyển khẩu nghiệp thì chúng ta cố gắng tập ngưng lại những lời nói xấu.  Phật nói: "Đùa cười gây nên ác, thân đã tạo nghiệp rồi sẽ khóc thân thọ báo, tội đến theo hành vi" có nghĩa là thân làm, khẩu nói, ý tưởng một cách đùa chơi mà không biết là đã chạm đến vị A La Hán chẳng hạn thì sẽ tạo thành thân sanh tử cho chính mình.  Ông Nguyễn Du nói rằng: “Đã mang lấy nghiệp vào thân thì cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Thiện căn bởi tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.  Tu là chuyển nghiệp của cái tâm và khi tâm đã chuyển thì tài ba không có giá trị gì cả bởi vì kiến thức càng nhiều mà thiếu thốn phần đạo đức tâm linh thì không trở thành người lương thiện được.

·          Khi nhân chưa gieo thì chúng ta là chủ nhân, nhưng khi nhân đã gieo rồi thì chúng ta trở thành thừa tự của cái quả kết tựu.  Quan trọng nhất của người học Phật là chuẩn bị những nghiệp nào chúng ta gieo và trong thời điểm nào tức là khi chưa đúng thời, chưa đủ duyên thì không gieo nhân.  Như vậy, nghiệp không gieo ra thì không có thành tố và không đủ duyên thì không có kết quả.  Do đó khi chúng ta làm chủ vấn đề thì tất cả đều tùy thuận vào chúng ta và ngược lại nếu để tất cả mọi thứ bên ngoài làm chủ thì chúng ta phải tùy thuận vào nó.

·          Khi kiểm soát được nghiệp nhân thì sẽ lãnh thọ được nghiệp báo an toàn theo như ý muốn.  Những việc làm, lời nói nào chưa đem đến cho người khác niềm hạnh phúc, an ổn thì chúng ta phải sửa dần dần.  Đức Phật đã từng tu 100 kiếp để sửa cái miệng tức là nói sao cho chính xác và hợp thời cơ.  Khi chúng ta nhận thức rằng nghiệp báo, nhân và quả là do chính chúng ta điều khiển thì chúng ta mới có thể sửa được và đó là tu.  Tu sửa cho đến khi nào mà “Miệng ta là cánh hoa sen, mỗi khi hé nở một phen thơm lừng.  Tiếng ta là gió mùa xuân, một phen thổi nhẹ muôn dân mát lòng.”

·          Chúng ta có thể từ từ chuyển từng nghiệp một, chuyển nghiệp thân, nghiệp ý và nghiệp khẩu.  Cái chúng ta nên chuyển trước hết là nghiệp khẩu, rồi đến nghiệp thân và sau cùng là nghiệp ý.  Khó khăn nhất là chuyển ý nghiệp bởi vì tâm tư chúng ta rất là rắc rối theo như câu nói:

“Con người cái ý vốn hai,


Khi mừng khi giận đổi thay không lường,


Vội vàng khi ghét khi thương,


Khi vui thì vui ngất,


Khi buồn thì buồn hiu.


Muốn ưa tạo sắm đủ điều


Rồi khi chê chán bỏ liều như chơi.”


·          Chúng ta phải có công phu, phải biết huấn luyện tâm thức có nghĩa là làm thế nào để tâm thức được tồn tại và làm thế nào để hóa giải những khó khăn của tâm một cách tế nhị.  Nhân tố của khổ đau là nghiệp, cho nên những vị A La Hán hiểu được rằng quá trình trung gian giữa hai đối tác gặp nhau tạo thành nghiệp, cho nên vì vậy bản thân của chính họ và người đem đến động tác khổ đau không là chủ động.  Bởi hiểu được như thế, những vị A La Hán có thể chịu đựng và hóa giải làm cho nghiệp tan biến đi mà không tạo tác thêm nghiệp mới.  Như thế, nếu chúng ta có nghiệp thì chúng ta sẵn sàng trả khi nghiệp đến mà không gây nên một cái ý thức hệ, không trồng hạt giống thứ hai trong cái nghiệp của mình.  Người Phật tử chúng ta thường than van khi nghiệp vừa mới khởi lên, chúng ta không muốn trả nghiệp đó và kiếm cách chống trả.  Vì không hóa giải được nghiệp cho nên nó trở thành một lực tác làm cho chúng ta khổ đau và đồng thời chúng ta chống lại cái khổ đau đó bằng cách đổ thừa người khác làm cho mình khổ đau.  Cả hai đối tác (trung gian là nghiệp) đều không muốn xung kích để gây khổ đau cho nhau, nhưng vì cái động lực của quá khứ tạo nên để một bên đòi nợ và một bên phải trả nghiệp, cho nên kết quả là khổ đau.  Để hóa giải, chúng ta phải nghĩ rằng người đem đến sự khó khăn cho mình là do nghiệp chứ nhân bản của họ không muốn làm khổ mình và đối tác là chính mình hiện tướng nghiệp lên để họ tìm cách làm cho mình khổ đau.  Hiểu như vậy rồi thì khi nghiệp đến chúng ta nên chịu đựng và chận đứng hoặc chuyển nghiệp bằng cách đừng để cho nó trở thành tác động phiền não về phía mình hoặc về phía đối phương. 

·          Nguyên tắc đầu tiên để hóa giải nghiệp là khi chủ định được tâm thì tâm sẽ không tác thành lời nói và hành vi, do đó ý nghĩ trong tâm được giữ kín để rồi từ từ hóa giải chứ không trở thành ưu sầu, phiền não, sân hận.

Duyên

·          Chữ duyên rất có nhiều nghĩa, chẳng hạn như là duyên nợ, phụ tá duyên hoặc tùy thuận duyên, có duyên, vô duyên, và tất cả đều có liên hệ đến cái nghiệp của mỗi người.  Vị Tỳ Kheo thời xưa khi ôm bình bát đi khất thực được gọi là hóa duyên có nghĩa là đem hành vi tốt của họ làm ruộng phước điền để người khác trồng thiện nghiệp.  Tuy nhiên cả đôi bên đều phải đồng tu và quyết tâm tu trong thiện duyên này.  Vị Tỳ Kheo sau khi nhận của cúng dường thì phải tinh tấn hơn nữa để đem giáo pháp trả nợ lại cho tín đồ Phật tử.  Ngay cả đức Phật cũng nói rằng ngài phải trả nợ chúng sanh cho nên sau khi thành đạo ngài trở lại độ chúng sanh.

·          Ruộng phước điền thể hiện trên tấm y những vị Tăng, Ni khoác trên người cho nên khi tín chủ cúng dường là họ kết thiện duyên và những vị mặc “phước điền y” là phải làm thế nào để tạo nên những quả báo tốt đẹp để trả nợ tín chủ.

·           Trong lúc thọ trai, Tam Đề được tụng lên để nguyện dứt ác, tu thiện, từ bi độ chúng sinh, còn Ngũ Quán là để tưởng đến món ăn cúng dường dùng để nuôi thân này làm lợi ích chúng sinh, tưởng đến công ơn cực khổ của nông phu, đàn na tín thí, v..v…Nói chung là những vị tu sĩ phải tinh tấn tu hành và đem khả năng cùng những giáo lý học được đó để giáo hóa làm lợi ích chúng sinh, và đây là trả nợ trong chánh pháp.

·          Người ở đời vì duyên nợ mà đến với nhau thì phải trả hết nợ cho nhau mà không thể nào trốn tránh được.

                  Phật nói rằng:          


   “Phi không phi hải trung


    Phi ẩn sơn thạch giang,


    Mạc năng vi thử xứ,


   Tỵ miền túc ác ương


Có nghĩa là dù ở trên hư không hoặc biển cả hoặc núi đá xa xôi, không nơi nào ta tránh được quả ác nghiệp đã gây rồi.

Chúng sanh hữu khổ não


    Bất đắc miễn lão tử


    Di hữu nhân trí ngã


    Bất niệm nhân tri ác.”


Dịch là: “nếu chúng sanh bị não hại, lão tử nghiệp đã vay, bậc bi trí giải thoát, không nhớ lỗi lầm ai” có nghĩa là cái tâm của người trí không kết đến lỗi lầm và khổ đau của người khác thì lúc đó chủng tử tâm không có, do đó không tạo thành nghiệp nhân thì nợ không đòi.

 Phật nói: “Nếu một người nông dân có lòng tin Phật và nghĩ rằng phải cầu xin Phật để ruộng lúa được nhiều nhưng hột giống thì không lựa, bò thì không cày, và ruộng thì không gieo.  Như vậy người nông dân đó có thâu hoạch được không? Dĩ nhiên là không.”  Không phải vì tin Phật pháp một cách cuồng tín mà có thể hóa giải được nợ cũ của mình, ngoại trừ mình phải biết thật tướng của nó là thừa tự của kết quả những gì mình đã tạo trong quá khứ.  Để hóa giải nghiệp thì chính mình phải đối diện với nó, bởi vì chỉ khi nào chính mình là chủ nợ thì chúng ta mới có quyền cho nợ, mới tự do quyết định được. 

Bài thơ “Đôi Dép”:

Bài thơ đầu Anh viết tặng Em

Là bài thơ Anh viết về đôi dép

Khi nỗi nhớ trong lòng da diếc

Những vật tầm thường cũng viết thành thơ

Hai chiếc dép kia gặp gở tự bao giờ

Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nữa bước

Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược

Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau

Cùng bước cùng mòn không kẻ thấp người cao

Cùng chia xẻ sức người chà đạp

Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác

Số phận chiếc nầy phụ thuộc ở chiếc kia

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi

Mọi thay thế sẽ trở thành khập khiễng

Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết

Hai chiếc nầy chẳng phải một đôi đâu

Cũng như mình trong những phút vắng nhau

Bước hụt hẵng cứ nghiêng về một phía

Dẫu bên cạnh đã có người thay thế

Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Ðôi dép vô tư khắng khít bước song hành

Chẳng thề nguyện mà không hề giả dối

Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội

Lối đi nào cũng có mặt cả đôi

Không thể thiếu nhau trên những bước đời

Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái

Nhưng Anh yêu Em bởi những điều ngược lại

Gắn bó đời nhau bởi một lối đi chung

Hai mãnh đời thầm lặng bước song song

Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc

Chỉ còn một là không còn gì hết

Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia.

Nghiệp duyên và nợ đi đôi giống như ngụ ý của bài thơ “Đôi Dép” tức là rất bình thường, giản dị không có gì là đạo đức xa vời cả.  Cũng vậy, những bài Kinh, bài pháp mà chúng ta học đừng nên coi là những cái gì cao siêu mà nên đem vào cuộc sống để hóa giải nó, hòa nhập nó vào từng bước đi của mình thì lâu dần chúng ta biến nó trở thành kỳ diệu.  Khi chúng ta có nổ lực, có sức mạnh của tự tin, của thiền định thì mọi hành động, lời nói, ý nghĩ, mọi tiếp xúc biến thành giới, định, tuệ, và đó là tu, là chứng.  Chúng ta đặt ý niệm vào trong mọi vấn đề và chuyển thành sức mạnh, nhưng với điều kiện là đi vào con đường thiện thì mới có thể trở thành những hạnh phúc trong tương lai.  Do nghiệp duyên mà người nào đó làm cho chúng ta khổ đau, và khi hiểu chính xác rồi dụng công để hóa giải nó thì ngay trong đời này chúng ta từ bỏ được nghiệp của mình.  Ngay trong hiện tại chúng ta phải làm thế nào để có đủ sức mạnh hóa giải những nghiệp duyên vì nếu không chúng ta sẽ mãi lẩn quẩn trả nghiệp từ đời này sang đời khác.  Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ cảm nhận được sức mạnh của chúng ta liên hệ giống như là đôi dép vậy.  Đôi dép có những hạnh phúc bên nhau mà không hề gây khổ đau bởi lý do thứ nhất là nó vô tư, thứ hai là nó không phân biệt nhân, ngã, bỉ, thử cho nên nó không có khổ đau.  Sau một thời gian đồng hành và một chiếc dép bị mất đi thì mọi thay thế đều không có giá trị.  Cũng vậy, trong đời sống vợ chồng hoặc những người thân mà chúng ta kết hợp được và song hành bước trên con đường thiện thì điều đó rất là quí và đúng nghĩa với bài thơ “Đôi dép”.(Thích Minh Hiếu)