Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011
TỨ NHIẾP PHÁP
TỨ NHIẾP PHÁP
Ban hoàng pháp
A. DẪN NHẬP
Tất cả chúng ta, ai tu hành cũng đều muốn nỗ lực cho tự thân được lợi ích, đó gọi là tự lợi. Khi chính mình được chuyển hóa tốt đẹp, chúng ta đem kết quả đó san sẻ giúp ích cho người khác, đó gọi là lợi tha. Tự lợi và lợi tha là con đường tu hành của các bậc Bồ tát.
Chúng sanh đa bệnh nên phương tiện giáo hóa của Phật cũng phải có nhiều và tương ứng, cũng như tùy bệnh mà cho thuốc. Trong đó, phương tiện hữu hiệu và tác động sâu xa vào lòng người là Tứ nhiếp pháp.
Tứ nhiếp pháp là bốn phương tiện để nhiếp phục, cảm hóa tâm lý của người đời. Khi đã cảm hóa được họ, lần hồi từng bước hướng dẫn người phát khởi niềm tin, mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật pháp. Các phương tiện này là: Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.
B. NỘI DUNG
I. ĐỊNH NGHĨA
Tứ nhiếp pháp là gì? Tức là bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục chúng sanh quay về với Phật pháp.
Bốn phương pháp đó là:
Bố thí nhiếp
Ái ngữ nhiếp
Lợi hành nhiếp
Ðồng sự nhiếp
II. HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ NHIẾP PHÁP
1. Bố thí nhiếp:
Một xã hội tốt đẹp hay xấu xa, hòa bình hay hỗn loạn không phải là không nguyên nhân. Nguyên nhân của hỗn loạn xấu xa chính là lòng ích kỷ. Nhân loại đang quằn quại trong khổ đau, những cảnh nồi da xáo thịt, tái diễn hằng ngày là do đâu, nếu không phải chính là lòng tham lam ích kỷ?
Ðạo Phật là đạo từ bi, nghĩa là cứu khổ. Mà những nỗi khổ lớn của con người là gì? Ðó là sự thiếu thốn về vật chất sự mê mờ về tinh thần, và lòng lo sợ về đủ mọi thứ, như lo sợ mất tiền của, mất thân mạng, gặp tai biến v.v...
Vậy người có lòng từ bi, muốn cứu khổ thì trước tiên phải xả bỏ tánh ích kỷ, phải cho mọi người những gì mình có, phải cho những gì người khác mong muốn. Nghĩa là phải làm hạnh bố thí. Do sự bố thí ấy mà mình cảm phục được người chung quanh, mà người chung quanh mới gần gũi thân mến mình và mong cầu học đạo giải thoát. Bố thí có 3 lối:
Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.
a) Tài thí: Tài là tiền của. tài thí là đem tiền của mà bố thí, để cứu vớt người đồng loại thoát khỏi đau khổ. Cảnh khổ của chúng sinh về vật chất không thể kể xiết: người thiếu cơm, kẻ thiếu áo, người thiếu thuốc thang, kẻ thiếu nơi nương náu...Ðứng trước bao cảnh khổ ấy, người Phật tử không thể nào an nhiên hưởng sự súng sướng riêng được, mà trái lại thấy mình có bổn phận xuất của, ra công giúp kẻ nghèo khổ, thiếu hụt.
Ðừng viện cớ, hay tự an ủi, mình nghèo không có của tiền giúp đỡ người chung quanh. Thật ra miễn là mình có từ tâm hay không, chứ không phải mình hoàn toàn thiếu phương tiện để giúp đỡ người khác. Một chén cơm vẫn có thể chia hai được, một manh chiếu vẫn còn đủ chỗ cho thêm một người nằm được. Người ta thường nói: "chật bụng chớ chật chi nhà", là thế. Người triệu phú đem cho năm, bảy ngàn bạc không làm cho người ta cảm phục, quý mến bằng người nghèo chỉ có hai bộ quần áo, mà đem cho bớt đi một bộ.
b) Pháp thí: Pháp là giáo pháp, là những lời dạy, những giáo lý của đức Phật và các bậc Thánh Hiền Tăng, là tam tạng kinh điển. Pháp thí là đem những giáo pháp quý báu ấy mà bố thí, giảng dạy cho chúng sinh. Ở nay Phật chỉ rõ năm điều thù thắng của pháp thí
Thứ nhất : Pháp thí gồm cả lợi mình, lợi người. Ví dụ, khi một người nói pháp cho một đám đông nghe, trước hết người ấy có lợi ích vì đã gieo một nhân tốt là bố thí pháp; người nghe được chánh pháp, nếu y đó tu hành, cuộc đời sẽ được chuyển hóa, tâm sẽ được thăng hoa. Tài thí thì không được như vậy, vì nếu bố thí để họ dùng phương tiện đó làm điều xấu, thì chính sự bố thí ấy lại làm hại cho họ và cho những người xung quanh
Thứ hai : Pháp thí hay khiến chúng sanh ra khỏi ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, nếu chúng sanh biết tu hành theo chánh pháp, đọan trừ tham – sân – si , được giác ngộ và giải thoát. Nếu dùng tài thí, đó là đang tu phước hữu vi, giỏi lắm cũng sanh về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, tức chưa giải thóat cỏi dục. Rồi khi hưởng hết phước, có thể lại bị đọa vào các đường ác.
Thứ ba : Pháp thí làm pháp thân thanh tịnh, còn tài thí chỉ tăng trưởng sắc thân. Sắc thân của chúng ta do nghiệp tạo nên, dễ bị hoại diệt, biến đổi vô thường; nhưng trong đó còn có pháp thân vô tướng, không bị biến hoại theo thời gian và không gian. Nếu trong suốt cuộc đời, chúng ta chỉ lo chăm sóc cho cái sắc thân, thỏa mãn những nhu cầu của nó là ăn, mặc, ở, tức cái hạ tầng kiến trúc của đời sống, mà quên đi phần thượng tầng kiến trúc là văn hóa, tâm linh, thiền định, trí tuệ, thì rỏ ràng chúng ta chỉ sống bằng bản năng như loài vật. Chỉ có thượng tầng kiến trúc mới nuôi dưỡng pháp thân, còn những nhu cầu vật chất tầm thường chỉ làm cho chúng ta mãi chìm trong vô minh tăm tối. Pháp thí sẽ giúp chúng ta biết chánh đạo, sống với cái cao cả, cái minh triết, là những yếu tố quyết định sự tiến hóa của toàn thể loài người.
Thứ tư : Pháp thí thì vô cùng, vì nó không có tướng mạo, nên không bị mai một theo thời gian. Người thí pháp vô cùng, vì có thể nói pháp suốt đời, nói ở mọi chổ mà vẫn mãi mãi lưu xuất được; người nghe pháp cũng vô cùng, vì dùng pháp để tu theo suốt đời vẫn không hết, không cạn. Ngược lại vì tài thí có hình tướng, nên có giới hạn có cùng tận
Thứ năm : Pháp thí dứt được vô minh, còn tài thí chỉ khuất phục được tham ái. Khi nghe pháp, sự hiểu biết của chúng ta càng sâu rộng, trí tuệ càng phát triển, đến rốt ráo có thể dứt được vô minh. Tài thí thì chỉ tạm giải quyết khó khăn trước mắt cho người được bố thí, còn người bố thí thì cũng tạm thời khuất phục được tham ái ngay lúc ấy mà thôi.
c)Vô úy thí: Vô úy là không sợ hãi. Vô úy thí là đem cái không sợ mà thí cho chúng sinh. Sự sợ hãi là một tâm trạng rất thông thường của chúng sinh trong cõi đời giả tạm và đầy đau khổ này. Vậy người có lòng từ bi, phải cố gắng làm sao cho chúng sinh chung quanh có được sự bình tĩnh, yên ổn của tâm hồn, không hoang mang lo lắng, sợ hãi.
Vô úy thí, không phải chỉ những người có can đảm, có tài năng, có uy quyền mới làm được. Hằng ngày chung quanh ta, biết bao người đang ở trong cảnh sợ hãi; nếu thật chúng ta có lòng từ muốn giúp đỡ cho họ khỏi sợ hãi thì không có lúc nào là không thẻ làm được: một đứa bé đang kinh hãi trước hàm răng của con chó dữ; một bà lão lo sợ bị xe cán không dám băng qua đường nhiều xe cộ; một thiếu nữ đi đêm "sợ ma"; một thí sinh run rẩy trước giờ vấn đáp v.v...đó là bao nhiêu cơ hội mà chúng ta có thể thi hành pháp Vô úy thí. gặp người bị tai nạn, ta đem tài năng hay thế lực ra đùm bọc, che chở, cho họ khỏi sợ hãi; gặp người đau ốm, lo sợ thần chết mang đi, ta lấy luật vô thường giảng giải cho họ và bảo họ niệm đức Quan Thế Âm Bồ Tát hay Phật A Di Ðà v.v...đó là Vô úy thí.
Tóm lại, bố thí là do lòng từ bi vô hạn mà làm. Nó có một phạm vi rộng rãi vô cùng. Khi nào còn có chúng sanh đau khổ thì ta còn bố thí.
Hình thức cao nhất của bố thí là bố thí Ba la mật, nghĩa là bố thí rất nhiều mà không thấy mình có bố thí; bố thí mà không phân biệt thân sơ, không chấp ta, người, thù, bạn; bố thí mà không chấp số lượng những vật thí. Như thế là ta đã thành tựu pháp "Tam luân không tịch" về bố thí. Khi ấy, bố thí không còn là một việc làm phúc hay ban ân nữa, mà chính là một việc tự nhiên, không thể bỏ qua được như ăn, như uống, như một bổn phận nhất định hàng ngày.
Vậy đã là Phật tử thì không thể nào không thi hành pháp bố thí được. Sự thi hành này tùy phương tiện, tài năng, thẻ lực của mình, và ở trong hoàn cảnh nào cũng làm được, chứ không phải đợi có đủ một số điều kiện nào đó mới làm được. Miễn là ta càng cố gắng giúp ích, cứu khổ cho người được chừng nào thì quí chừng ấy.
2. Ái ngữ nhiếp:
Thứ hai là Ái Ngữ nhiếp, nghĩa là thu phục lòng người bằng lời nói khiến người yêu mến & lời nói khiến người yêu mến được chia ra thành hai loại.
Thứ nhất là tùy theo tâm tánh, cách nói của người khác mà thường xuyên thăm hỏi, an ủi, chia sẻ những khi họ buồn khổ; khen ngợi, khuyến khích những khi họ làm được điều lành, khiến cho người nghe ngày càng tăng trưởng thiện tâm, lâu dần trở nên thân thiết, có thể tin phục & nghe theo mình. Như vậy gọi là THẾ GIAN ÁI NGỮ .
Thứ hai là vận dụng những lời dạy trong kinh điển, đúng theo chánh pháp mà khuyên dạy người khác, khiến cho họ xa rời điều ác, tăng trưởng điều thiện, đạt được đời sống ngày càng an vui - hạnh phúc. Nhờ kết quả đó mà người nghe trở nên tin phục mình, như vậy gọi là Xuất THẾ GIAN ÁI NGỮ.
Nếu đôi mắt được xem là cửa sổ của tâm hồn, thì ngôn ngữ chính là chổ biểu hiện của tâm hồn ấy. Vì sao nói như vậy ? Bởi vì lời nói của một người có thể biểu hiện được tư cách, trí tuệ, đạo đức và đời sống nội tâm của người đó. Một nhà hiền triết có nói : “Tạo hóa rất khéo sắp đặt, cho mỗi người hai mắt, hai mũi, hai tai nhưng chỉ có một miệng” cần hai mắt để thấy cho rõ, cần hai mũi để hít thở cho đủ dưỡng khí, cần hai tai để lắng nghe; nhưng chỉ cần một miệng để vừa ăn vừa nói. Đức Khổng Tử đã bảo : “Đa ngôn đa bại” (nói nhiều hại nhiều).
Trong kinh A Hàm, đức Phật dạy : “Này các Tỳ kheo ! có ba lối nói : Một là nói như phân; hai là nói như hoa; ba là nói như mật.
Thế nào là nói như phân ? – Này các Tỳ kheo ! Hạng người nói không đúng sự thậtt, nói dối trá, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói ác ngữ. Đây là hạng người nói như phân.
Và này, các Tỳ kheo ! Thế nào là nói như hoa ? Hạng người nói đúng sự thật, không dối trá không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không nói ác ngữ. Đây là hạng người nói như hoa.
Và này, các Tỳ kheo ! Thế nào là nói như mật ? – Hạng người không những nói đúng sự thật, không dối trá, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không nói ác ngữ, mà còn luôn luôn nói những lời lợi ích, nói những lời không hại, nói những lời hướng thiện, tai ưa nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được nhiều người ưa thích, thích ý. Đây là hạng người nói như mật”
Vì sao đức Phật ví những người vọng ngôn , ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu là nói như phân ?
Trong cơ thể, chất hạ tiện nhất, bẩn thỉu nhất là phân. Khi một người nói ra những lời ấy, người khác cũng nhờm gớm, không muốn nhìn, không muốn gần, như đối với phân vậy.
Hạng người thứ hai khiến người chung quanh muốn gần gũi, yêu mến, được ví như hoa, vì hoa vừa có màu sắc vừa có hương thơm, khiến người thích nhìn ngắm, thưởng thức.
Hạng người thứ ba đặc biệt hơn cả, họ đã thành tựu được chánh ngữ và sử dụng chánh ngữ để làm lợi ích cho người khác, giúp người khác đi vào chánh đạo, thăng hoa trong cuộc sống. Đức Phật ví hạng người này như mật,, vì ngoài hương vị thơm ngon và ngọt ngào, mật còn có tác dụng trị liệu. Y học hiện đại kết hợp với y học cổ truyền đã chứng minh, mật có một số tác dụng chính như thanh nhiệt giải độc, giúp an thần, tăng trí nhớ và trị suy nhược thần kinh, kích thích tiêu hóa và điều hòa độ axít trong dạ dày, long đàm và giảm ho, đặc biệt còn làm tăng thể trạng và sức đề kháng cho cơ thể. Hạng người nói như mật, không những dùng ái ngữ khiến người khác cảm mến muốn gần, mà lời nói của họ khiến người khác bớt khổ, điều trị được bệnh phiền não cho người.
3. Lợi hành nhiếp:
Phương pháp thứ ba là Lợi Hành nhiếp, nghĩa là dùng những việc làm, hành vi có lợi cho người khác để thu phục lòng tin của họ. Trong những việc làm, hành vi có lợi cho người khác có thể chia ra thành hai nhóm là TẬP THIỆN nhiếp & LY ÁC nhiếp.
* TẬP THIỆN nhiếp là phương pháp nhiếp phục đối với những người hiền thiện, nghĩa là thu nhóm tập hợp các điều lành. Trong nhóm này lại chia ra làm hai trường hợp, một là đối với những người chưa từng làm điều thiện & hai là đối với những người đã biết làm điều thiện.
Với những người chưa từng làm điều thiện, người biết vận dụng Lợi Hành nhiếp sẽ dùng phương tiện gần gũi, tùy thuận với họ, rồi tìm những cơ hội thuận tiện, thích hợp để khuyên dạy, khuyến khích họ phát tâm làm việc thiện. Sau khi đã phát tâm làm việc thiện, họ sẽ tự mình nhận biết được những lợi ích thiết thực cho bản thân & do đó mà nảy sinh lòng tin phục cảm mến.
Với những người chưa từng làm điều thiện, người biết vận dụng Lợi Hành nhiếp sẽ dùng phương tiện gần gũi, tùy thuận với họ, rồi tìm những cơ hội thuận tiện, thích hợp để khuyên dạy, khuyến khích họ phát tâm làm việc thiện. Sau khi đã phát tâm làm việc thiện, họ sẽ tự mình nhận biết được những lợi ích thiết thực cho bản thân & do đó mà nảy sinh lòng tin phục cảm mến.
Với những người đã biết làm việc thiện, người biết vận dụng Lợi Hành nhiếp sẽ gần gũi khen ngợi, khuyến khích, làm cho tâm thiện của họ càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Nhờ làm điều thiện nên người ấy có thể đạt được nhiều an vui, hạnh phúc trong đời sống, do đó mà sinh ra kính tin người đã khen ngợi, khuyến khích mình.
* LY ÁC nhiếp là phương pháp nhiếp phục đối với những người đã đi nhầm vào đường ác, nghĩa là làm cho họ phải rời xa, lìa bỏ những việc không tốt đã làm. Có hai cách để làm được điều này. Một là dùng những lời lẽ chân thật, đúng đắn để chỉ trích, quở trách hoặc dùng các biện pháp trừng phạt, nghiêm trị, làm cho họ phải nhận thấy rõ lỗi lầm mà hối cải. Hai là dùng sự uy dũng, mạnh mẽ của mình để khuất phục những kẻ ngang ngạnh, cứng rắn, buộc họ phải lìa bỏ việc ác không dám tái phạm. Người vận dụng Ly Ác nhiếp phải có đủ sự hiểu biết & sức mạnh để khuất phục làm cho họ không thể chống lại được. Mặc dù vậy, sau khi lìa bỏ những việc không tốt đã làm, những người ấy sẽ đạt được đời sống an ổn & hạnh phúc hơn, do đó mà họ nảy sinh sự tin phục, kính trọng đối với người đã giúp mình .
Tập Thiện nhiếp & Ly Ác nhiếp đều nhắm đến cùng một mục đích là khuyến thiện trừ ác, nhưng vận dụng cách nào là tùy thuộc vào đối tượng, có nhiều trường hợp cần phải vận dụng cả hai. Chẳng hạn như đối với hành vi của một người, nếu khéo léo phân biệt sẽ thấy là vẫn có những việc thiện đáng khen ngợi, cho nên đối với việc không tốt thì cần phải vận dụng nhiều phương tiện để khiến cho họ lìa bỏ, nhưng đối với những việc thiện thì cần phải khen ngợi, khuyến khích.
Tự mình làm việc thiện sẽ đạt được những lợi ích rất lớn lao. Vì thế, việc dùng mọi phương tiện để giúp người khác phát tâm làm điều thiện chính là hành vi mang lại lợi ích lớn nhất cho họ. Đây chính là ý nghĩa quan trọng nhất của Lợi Hành nhiếp. Việc thân cận, gần gũi & giúp đỡ người khác tuy cũng mang ý nghĩa lợi hành, có thể khiến cho người khadc nảy sinh sự than mật, cảm mến, nhưng không phải là ý nghĩa chính của Lợi Hành nhiếp. Người vận dụng Lợi Hành nhiếp phải luôn hướng đến việc giúp cho người khác có thể phát tâm làm việc thiện & từ bỏ việc ác, như thế mới gọi là làm lợi ích cho người một cách chân chánh.
Tự mình làm việc thiện sẽ đạt được những lợi ích rất lớn lao. Vì thế, việc dùng mọi phương tiện để giúp người khác phát tâm làm điều thiện chính là hành vi mang lại lợi ích lớn nhất cho họ. Đây chính là ý nghĩa quan trọng nhất của Lợi Hành nhiếp. Việc thân cận, gần gũi & giúp đỡ người khác tuy cũng mang ý nghĩa lợi hành, có thể khiến cho người khadc nảy sinh sự than mật, cảm mến, nhưng không phải là ý nghĩa chính của Lợi Hành nhiếp. Người vận dụng Lợi Hành nhiếp phải luôn hướng đến việc giúp cho người khác có thể phát tâm làm việc thiện & từ bỏ việc ác, như thế mới gọi là làm lợi ích cho người một cách chân chánh.
4. Ðồng sự nhiếp:
Phương pháp thứ tư là Đồng Sự nhiếp, nghĩa là thu phục lòng người bằng cách cùng chia sẻ mọi việc với họ. Cùng chia sẻ mọi việc không chỉ có nghĩa là cùng nhau làm việc, mà là cùng nhau trải qua những hoàn cảnh buồn vui, khó khăn vất vả hay dễ dàng thuận lợi. Nhờ cùng nhau trải qua một hoàn cảnh nào đó nên mới có thể chia sẻ tâm trạng của nhau, cảm thông được mọi nỗi niềm của nhau. Vì thế, Đồng Sự nhiếp thường được chia ra thành hai loại là Đồng Khổ Sự nhiếp & Đồng Lạc Sự nhiếp.
* Đồng Khổ Sự nhiếp là cùng người khác trải qua gian nan hoạn nạn, khó khăn khổ nhọc, nhờ đó mà lấy sự chân thành chia sẻ, an ủi động viên, giúp sức cho họ vượt qua khó khăn, nhờ đó mà tạo được sự cảm mến, tin phục.
* Đồng Lạc Sự nhiếp là cùng người khác trải qua những hoàn cảnh thuận lợi, vui vẻ, luôn thân cận gần gũi để nhắc nhở khuyên răn, giúp người không rơi vào chỗ đam mê trụy lạc. Nhờ có sự khuyên răn nhắc nhở ấy mà giúp cho họ giữ được đời sống an vui hạnh phúc. Do đó mà tạo được sự cảm mến – tin phục. Người thực hành Đồng Sự nhiếp phải xuất phát từ sự chân thành, thật tâm chia sẻ không giả dối, ngụy tạo. Trong lòng có thực sự thương yêu, thông cảm thì mới có thể cảm hóa được người khác nghe theo mình. Nếu chỉ thân cận gần gũi người khác vì những mục đích trục lợi thì không thể gọi là đồng sự nhiếp, những trường hợp ấy, sớm muộn gì cũng bị người khác nhận ra & khinh rẻ .
III. LỢI ÍCH CỦA TỨ NHIẾP PHÁP
Nếu ta thực hành đúng theo tứ nhiếp Pháp ta sẽ thấy những kết quả đẹp đẽ sau đây:
1. Về phương diện cá nhân:
Ta sẽ là một con người gương mẫu; mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động của ta đều là một hạt giống thiện gieo vào ruộng phước mà sau nầy ta sẽ gặt được những kết quả quý báu, tốt lành. Những gì của ta nói ra, làm ra đều được thông cảm, tán thành, mến phục. Ta có thể thu hút nhân tâm một cách dễ dàng, rộng rãi, và mỗi khi đi đến đâu, ta đều được tiếp đón một cách chân thành, nồng nhiệt. Do đó, ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.
2. Về phương diện gia định:
Khi người ngoài, xã lạ mà còn mến phuc, thương yêu ta, thì sao cha mẹ, vợ con, anh em là những người thân thuộc lại không quý mến ta được? Do ảnh hưởng tốt đẹp vbà uy tín của ta, mọi người trong gia đình đều trở thành thuần lương, đức độ cả. Và một gia đình gồm những phần tử như thế, thì thể nào cũng được trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm, nghĩa là có hạnh phúc.
3. Về phương diện xã hội:
Một người tu hạnh tứ Nhiếp pháp cũng đã gây được ảnh hưởng tốt lành và hoán cải được một phần nào hoàn cảnh xa hội. Số người tu Tứ Nhiếp Pháp cành nhiều thì xã hội lại càng được cải tiến, và trở thành thuần lương, thiện mỹ.
Người ta thường trách đạo Phật là tiêu cực yếm thế. Những lời chỉ trích sai lầm ấy, chỉ đem một giáo lý Tứ Nhiếp Pháp nầy ra chứng minh, cũng đủ đánh đổ được ngay. Thật vậy, nếu áp dụng triệt để tứ Nhiếp Pháp vào cuộc đời thực tế, thì xã hội sẽ được cải tiến một cách vô cùng lợi lạc.
C. KẾT LUẬN
Như trên đã nói, Tứ Nhiếp Pháp là một pháp môn để cải tiến xã hội một cách có hiệu quả nhất. Nó lấy lợi sanh làm căn bản, lấy hạnh phúc của chúng sanh làm mục đích. Ðây chúng ta hãy nhớ lại từng điểm một:
1) Hãy đem của cải giúp cho người túng thiếu, tật nguyền, đem Phật pháp giảng nói để cho mọi người cải ác tùng thiện, đem dũng lực tinh thần hay vật chất để che chở cho người chung quanh khỏi lo sợ.
2) hãy nói lời ôn hòa nhã nhặn, để cảm hóa người ta đi theo con đường lành.
3) Hãy làm lợi ích cho mọi người trong mọi trường hợp.
4) hãy hòa mình trong cuộc sống, trong công việc của người chung quanh, để nhận rõ được người nhu cầu thiết tha của họ, hầu giúp đỡ họ một cách có hiệu quả, và đưa dần dần họ về con đường chính.
Vậy là Phật tử, chúng ta không thể dửng dưng trước những lời kêu gọi lợi tha ấy được.
Nếu chúng ta làm ngơ, chúng ta chưa phải là Phật tử chân chính, vì chúng ta đã thiếu hai yếu tố quan trọng nhất để tu hành: đó là lòng từ bi và lợi tha. Thiếu hai điểm ấy không bao giờ chúng ta có thể tiến triển trên đường đạo và thành Phật được.
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011
TAM PHÁP ẤN
TAM PHÁP ẤN
Tam pháp ấn: vô thường, khổ và vô ngã chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp. Mọi giáo lý của đạo Phật, tất yếu đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp ấn đó thì giáo lý ấy chắc chắn không phải Chánh pháp, lời Phật dạy. Chính vì tính chất quan trọng này mà Tam pháp ấn luôn được nhắc đến trong hầu hết kinh điển, từ Kinh tạng Nam truyền đến Bắc truyền.
I – ĐỊNH NGHĨA PHÁP ẤN :
Pháp nói vắn tắt cho dễ hiểu là Giáo Pháp.
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Như vậy Pháp Ấn là khuôn dấu hay dấu hiệu của chánh pháp, là tiêu chuẩn để chứng minh cho tính đúng đắn và chính thống của giáo lý đạo Phật .
Tam Pháp Ấn là ba đặc điểm nổi bậc của giáo lý đạo Phật , ba khuôn dấu của chánh pháp , là ba bản chất của thế giới hiện tượng : VÔ THƯỜNG – KHỔ và VÔ NGÃ .
II – PHÁP ẤN THỨ I : VÔ THƯỜNG :
1 – Định nghĩa :
Vô thường tiếng Phạn là Anitya, có nghĩa là biến dịch, thay đổi, không cố định. Vạn vật không đứng yên một chổ mà luôn luôn biến đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành sang trạng thái biến hoại rồi tan rã theo định luật Thành, Trụ – Hoại – Không.
Hay Tổ Quy Sơn cũng đã từng dạy :
“. . . Vô thường lão bệnh, bất dữ nhơn kỳ
Tiêu tồn tịch vong, sát na dị thế
Thí như xuân sương hiểu lộ, thúc hốt tức vô
Ngạn thọ tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. . .”
2– Phân loại :
a – Thân Vô thường :
Kiếp người với khoảng thời gian bất định 60 năm cuộc đời, có thể hơn thế nữa nhưng cũng có thể chỉ 20 năm, 10 năm. Trong kinh Pháp Cú Thế Tôn đã dạy:
Thân này không bao lâu
Sẽ vùi sâu đáy mồ
Như cây khô khúc gỗ
Vưt bỏ vì vô tri.
b – Tâm Vô thường :
Về tâm lý của con người cũng vậy, các trạng thái tâm lý luôn thay đổi, chuyển biến trong từng sát na. Tâm thức con người với muôn ngàn ý niệm tuôn trào, trôi chảy như thác lũ. Tất cả vui buồn, thương ghét, tha thứ hay hận thù v.v..., luôn hiện khởi và vận hành trong tâm thức. Vì vậy Tổ Quy Sơn đã dạy :
“ Niệm niệm tấn tốc nhất sát na gian
Chuyển tức tức thị lai sanh
Hà nãi yến nhiên không quá.”
( Phật Tổ Ngũ Kinh trang 451 )
Nghĩa là : “ Niệm niệm sanh diệt qua mau, trong một sát na đã chuyển qua đời khác. Tại sao chúng ta lại nỡ khoanh tay để ngày tháng luống qua mau”
c – Hoàn cảnh Vô thường :
Chẳng những thân thể chúng ta luôn biến chuyển , thay đổi tương tục không dừng mà ngay cả sơn hà đại địa cũng không tránh khỏi định luật Vô thường kia. Điều này chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy.Mới hôm nào là đồng hoang, cỏ cháy mà hôm nay là khu du lịch vui chơi của hàng ngàn du khách. Chúng ta hãy nhìn đi để thấy và để cảm nhận thế nào là hoàn cảnh Vô thường. Thế cho nên cổ đức đã dạy :
Biển hoá cồn dâu rất nhiệm mầu
Sông dài núi lớn chắc già đâu
Rừng mây lơ lửng chim vướng bẩy
Đáy nước mịt mù cá mất câu
Triệu phú Thạch Sùng đâu thấy nữa
Oai quyền Tần Thủy có bao lâu
Soi gương kim cổ mau tu tỉnh
Thế sự công danh dập bả trầu.
Đây là một nhận xét rất tinh tế. Hằng ngày nhiều lúc người ta cứ lầm tưởng những vật trước mắt là thường hằng vĩnh cửu, bất biến không thay đổi.
III – PHÁP ẤN THỨ II : KHỔ :
1 – Định nghĩa :
Khổ, theo Hán tự, có nghĩa là đắng, tức mọi sự đau khổ trong đời chứa đựng nhiều đắng cay… Tiếng Pàli, khổ là Dukkha, ngoài ý nghĩa là cảm giác khổ đau, bức bách, khó chịu, nóng bức còn mang ý nghĩa sự bất toàn; thế gian vốn trống rỗng, đáng khinh miệt, không đáng để bám víu (Narada, Đức Phật và Phật pháp, tr.88).
Khổ tiếng Pàli là Dukkha; “ Du” có nghĩa là khó còn Kkha có nghĩa là chịu đựng, là kham nhẫn.
2 – Phân loại :
Theo đạo Phật khổ đau trong đời sống con người được chia qua 8 hiện tượng như sau :
Khổ đau trong đời sống con người rất phổ biến, thường được trình bày qua tám phương diện là: Sanh là khổ. Già là khổ. Bệnh là khổ. Chết là khổ. Phải sống chung với người mình không thích là khổ. Phải xa lìa những người thân yêu là khổ. Cầu mong mà không được là khổ. Chính thân ngũ uẩn là khổ. Sự thật về khổ đau này được Đức Phật nói cho năm vị đệ tử ngay trong pháp thoại đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) tại vườn Nai.
Tám nổi khổ trên của kiếp người được tóm gọn thành ba điều khổ tổng quát như sau :
Khổ còn được phân biệt thành ba loại là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Khổ khổ có nghĩa là các cảm thọ khó chịu, thuộc khổ thọ. Những cảm giác thống khổ, đau đớn trong thân thể và các trạng thái tâm - sinh lý bất an đều là khổ thọ, loại khổ thứ nhất. Hoại khổ có nghĩa là sự thay đổi, biến chuyển, tiêu hoại tạo ra khổ. Nói cách khác, sự biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, sự biến hoại theo khuynh hướng xấu trong cơ chế tâm-sinh-vật lý của con người đem lại sự bất an, khổ đau là hoại khổ. Hành khổ nghĩa là các pháp do nhân duyên tạo thành đều vô thường, sinh diệt trong từng sát na nên tạo ra khổ. Thân thể, thế giới, hoàn cảnh sống, các trạng thái tâm lý của con người như đã nói đều do nhân duyên sinh nên phải chịu sự tác động của vô thường. Vô thường, thay đổi thì đưa đến khổ. Cho nên trong các hành, các hiện tượng đều chứa sẵn mầm mống của khổ, gọi là hành khổ. Thế nên Thầy Thích Tâm Chơn đã viết : Trong tiếng Hán có một câu thành ngữ “Giấc mộng Nam Kha”, được dùng để hình dung cõi mộng hoặc một không tưởng không thể thực hiện được của một người nào đó. Thành ngữ này có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết “Tiểu sử Nam Kha Thái Thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường Trung Quốc thế kỷ 9 công nguyên.
Một người tên Thuần Vu Phân, ngày thường thích uống rượu. Trong sân nhà ông có một cây hòe lớn rễ sâu cành rậm, một đêm giữa hè, trăng tỏ sao thưa, gió thổi hiu hiu, chỗ dưới cây hòe là một chỗ hóng mát tốt.
Vào ngày sinh nhật của Thuần Vu Phân, người thân và bạn bè đều đến chúc thọ, ông vui mừng quá, và uống nhiều chén rượu. Sau khi người thân và bạn bè về nhà, Thuần Vu Phân ngà ngà say hóng mát dưới cây hòe, bất giác ngủ quên.
Trong giấc mơ, nhận lời mời của hai sứ thần, Thuần Vu Phân bước vào một lỗ cây. Trong lỗ có thời tiết tốt đẹp, là một thế giới riêng biệt, có nước Đại Hòe. Lúc đó, kinh thành đang tổ chức cuộc thi lựa chọn quan chức, ông cũng đi đăng ký. Ông đã thi ba cuộc, viết văn rất suôn sẻ. Khi công bố kết quả cuộc thi, ông đứng đầu bảng. Tiếp theo nhà vua tổ chức thi đình. Nhà vua nhìn thấy Thuần Vu Phân vừa đẹp trai, vừa tài ba lỗi lạc, nên hết sức ưa thích, rồi chọn ông là trạng nguyên, và gả công chúa cho ông. Trạng nguyên trở thành phò mã, nhất thời việc này được truyền thành giai thoại ở kinh đô.
Sau khi lấy nhau, vợ chồng hết sức đằm thắm. Không lâu, Thuần Vu Phân được nhà vua cử đến quận Nam Kha làm thái thú. Thuần Vu Phân cố gắng làm việc và quý mến nhân dân, thường đến địa phận quận Nam Kha điều tra nghiên cứu, kiểm tra công tác của bộ hạ, công tác hành chính ở các địa phương đều rất liêm khiết và có trật tự, nhân dân địa phương hết sức khen ngợi. Ba mươi năm trôi qua, thành tích của Thuần Vu Phân đã nổi tiếng khắp toàn quốc, và ông đã có 7 con, 5 trai 2 gái, cuộc sống rất hạnh phúc. Nhà vua mấy lần muốn điều động Thuần Vu Phân về kinh thành đảm nhiệm chức vụ cao hơn, nhưng sau khi được biết, nhân dân địa phương kéo nhau lên phố, ngăn lại xe ngựa của thái thú, thỉnh cầu ông tiếp tục làm quan thái thú quận Nam Kha. Thuần Vu Phân cảm động trước sự yêu mến của nhân dân, đành phải lưu lại, và trình thư lên nhà vua giải thích rõ tình hình. Nhà vua rất vui mừng trước thành tích công tác chính trị của ông, và ban thưởng cho ông nhiều vàng bạc châu báu.
Một năm, nước Thiện La cử quân đội xâm phạm nước Đại Hòe, các tướng quân nước Đại Hòe thừa lệnh chặn đánh địch, bất ngờ bị đánh bại nhiều lần. Tin thua trần truyền tới kinh thành, nhà vua bị choáng, khẩn cấp triệu tập quan chức văn võ thương lượng cách đối phó. Nghe nói quân đội mình nhiều lần bị đánh bại ở tiền tuyến, địch hết sức mạnh mẽ đã tiến gần kinh thành, các đại thần sợ hãi đến nỗi tái mặt, đại thần này nhìn đại thần kia, đành chịu bó tay.
Nhìn thấy thần sắc của đại thần, nhà vua hết sức tức giận và nói: “Nhà ngươi ngày thường ăn ngon ở nhàn, hưởng thụ hết vinh hoa phú quý, một khi nhà nước gặp khó khăn, nhà ngươi lại trở thành quả bầu không có mồm, hèn nhát khiếp trận, cần nhà ngươi có tác dụng gì?”
Tể tướng chợt nghĩ tới ông Thuần Vu Phân, thái thú quận Nam Kha có thành tích công tác xuất sắc, bèn giới thiệu với nhà vua. Nhà vua ra lệnh ngay, điều động Thuần Vu Phân điều khiển quân đội tinh nhuệ toàn quốc đánh địch.
Sau khi nhận được mệnh lệnh của nhà vua, Thuần Vu Phân lập tức dẫn quân xuất chinh. Nhưng ông không biết gì về phép dùng binh, vừa giao chiến với quân địch, đã bị thua liểng xiểng, chiến sĩ và ngựa bị tổn thất nặng nề, ông xuýt nữa bị bắt. Được tin này, nhà vua hết sức thất vọng, ra lệnh truất bỏ mọi chức vụ của ông, giáng xuống làm bình dân, và đưa về quê. Thuần Vu Phân nghĩ tên tuổi anh hùng của mình bị phá hủy hoàn toàn, hết sức xấu hổ và tức giận, kêu một tiếng thật to, ông tỉnh dậy từ giấc mơ. Ông theo cõi mộng đi tìm nước Đại Hoè, hóa ra dưới cây hòe có một lỗ con kiến, những kiến đang cư trú ở đó.
“Giấc mơ Nam Kha” có khi cũng chỉ đời người như giấc mơ, phú quý quyền thế đều là hư ảo.
“ Cuộc đời giấc mộng Nam Kha
Giật mình tỉnh dậy thì ta tuổi già
Trăm năm cõi mộng người ta
Sanh già bệnh tử thiệt là chẳng sai
Còn thêm địa thủy phong tai
Sang hèn, nghèo khó chẳng ai khỏi nào. “
IV – PHÁP ẤN THỨ III : VÔ NGÃ
Vô ngã nghĩa là không có một bản chất trường tồn, bất biến, không có một chủ thể tuyệt đối, không có một linh hồn bất diệt, không có đấng sáng tạo vĩnh cửu. Vì tất cả sự vật đều do duyên sinh, sự hiện hữu của mỗi sự vật, mỗi chúng sanh là sự hiện hữu trong tương quan, do tác động nhân duyên mà thành. Sự hiện hữu của chúng ta là do bốn đại kết hợp, năm uẩn định hình trong cơ chế nhân duyên mà thành, nên tất cả đều là Vô ngã.
Khi đặt câu hỏi ta là gì ? Một triết học gia đã than thở : “ Ta chỉ là một hạt cát trong sa mạc mênh mông, là ngọn gió lang thang khắp ruộng đồng, là điểm nhỏ của khoảng không bất tận, là hạt mưa sa trong biển cả bao la”.
Vô thưòng và khổ đau là hai đặc điểm tương đối dễ được người ta chấp nhận. Nhưng tính chất Vô ngã thường khó được người ta chấp nhận . Nguyên nhân chính là do vô minh, tham ái, người ta đã chấp ngã tự bao giờ, do ước vọng được sanh tồn, sợ mất sở hữu, sợ mất bản thân . . . mà con người đã tạo một đấng tối cao, một linh hồn bất tử ( Ngã ) để được che chở và mãi mãi trường tồn bất diệt . chúng ta cần phải thường xuyên tư duy, quán sát về Vô thường và Vô ngã để nội tâm chúng ta ngày một định tỉnh, sáng suốt và có nghị lực vững chắc hơn để vượt qua những chướng ngại khổ đau trong cuộc sống. Cho nên trong Kinh Pháp Cú 279 đức Phật dạy
:
“Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ quán như vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh.”
V: ỨNG DỤNG TAM PHÁP ẤN TRONG TU TẬP
Vô thường, Khổ và Vô ngã là ba đặc tính trọng yếu của giáo pháp. Mỗi pháp ấn có vai trò và chức năng khác nhau để nhận diện Chánh pháp. Tuy nhiên, dưới tuệ giác duyên khởi thì ba pháp ấn có quan hệ tương tức, hỗ tương gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong dấu ấn vô thường vốn hàm chứa dấu ấn của khổ và vô ngã, trong hai dấu ấn còn lại cũng tương tự.
Giáo lý Tam pháp ấn ngoài chức năng thẩm định Chánh pháp còn cung cấp tuệ giác để soi chiếu thực tại nhằm phá tan mê mờ, tham ái, tà kiến để vượt thoát mọi chấp thủ khổ đau, đạt đến bình an, giải thoát. Một khi tâm tư của con người bị nhuốm màu chấp thủ, khi đó khổ đau có mặt. Hai ý niệm mà con người thường bị trói buộc là “cái tôi” và “cái của tôi”. Quan niệm sai lầm cho rằng mọi sinh thể đều có một bản chất đồng nhất hay một “ linh hồn” tồn tại mãi mãi và sự bảo thủ trong quan niệm, ý kiến và cho rằng ta luôn luôn đúng trong mọi trường hợp là căn để của khổ đau và làm chướng ngại sự thăng hoa tinh thần. Ý niệm “có một thực thể vô hình thường tại trong mỗi cá thể” đã hiện diện trong hầu hết các tôn giáo trước và đương thời Thế Tôn, đồng thời vẫn còn ảnh hưởng đậm nét trong đời sống tinh thần của nhân loại ngày nay. Do vậy, chừng nào con người liễu tri thế giới hiện tượng và chúng sanh vốn dĩ vô thường và vô ngã thì khi ấy khổ đau, tăm tối thật sự được diệt trừ.
Tóm lại, ba khuôn dấu Vô thường, Khổ và Vô ngã là những nguyên lý cơ bản nhằm xác định Chánh pháp, tái thẩm định các lý thuyết, quan điểm và cả pháp môn tu tập của Phật giáo. Mặc dầu kinh điển Phật giáo cực kỳ đa dạng song tư tưởng hàm chứa trong các kinh điển ấy vẫn không ngoài quỹ đạo của ba pháp ấn. Hiện tại, vẫn còn rải rác đây đó những “kinh” sách lưu truyền trong chùa viện và giới Phật tử với danh nghĩa kinh Phật nhưng thiếu vắng ba dấu ấn Chánh pháp, đơn cử như Địa mẫu chơn kinh, Táo quân chơn kinh… Do vậy, cần nhận thức đúng về ba pháp ấn để thẩm định kinh điển và nhất là ứng dụng trong tu tập quán chiếu về năm uẩn. Mọi khổ đau của chúng sanh đều bắt nguồn từ những ràng buộc, chấp thủ do quan niệm sai lầm về một cái ngã thường tại, bất biến, vĩnh cửu. “Cái tôi” và “cái của tôi” là nguyên nhân của xung đột toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống con người. Vì thế, giáo lý ba pháp ấn là chìa khóa để mở cửa giải thoát, làm nền tảng cho sự chuyển hóa phiền não, thành tựu tuệ giác và thăng hoa tâm linh.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)